U mi mắt các loại u mi mắt và phương pháp điều trị

U mi mắt là u xuất phát từ mi mắt có thể là u lành tính hoặc ác tính, chỉ ảnh hưởng tới thẩm mỹ hay ảnh hưởng cả tới chức năng của mi có khi cản trở tầm nhìn của mắt. Trong các loại u ở mắt thì u mi mắt là một trong hai loại hay gặp nhất. Được chia làm nhiều loại như sau:

I. Các loại u mi mắt nguồn gốc biểu mô

1.1 Các u lành tính

– U nhú: là sự phát triển của biểu mô có dạng nhiều thùy như bắp cải và mỗi thùy chứa một lõi mạch máu ở trung tâm. Nhiều tổn thương khác nhau ở mi mắt có thể phát triển thành u nhú như: mụn cơm, dày sừng quang hóa, dày sừng bã.

– U sừng – gai: là u lành hoạt tính phát triển nhanh 6-8 tuần. u sừng gai là một khối nhô lên của da, lớn, gần như hình tròn, chưa một lõm rốn keratin ở trung tâm, không có loạn sản. Thường được điều trị bằng cách cắt bỏ.

– Dày sừng tăng tiết bã nhờn: là một loại u da rất thường gặp ở người lớn tuổi. U cso hình khuy áo nổi trên mặt da, bề mặt màu nâu nhạt, nhờn và có dạng mụn cơm nhỏ. Thường không có viêm trừ khi xảy ra kích thích cơ học hay chấn thương. Dễ bị nhầm với tổn thương tiền ác tính là dày sừng quang hóa.

– Dày sừng nhú lộn ngược: thường được xếp là một loại tăng sản giả u biểu mô, nhưng bản chất là một dạng dày sừng bã nhờn bị viêm và kích thích. Khối u thường có nhú, những chỗ dày sừng bị lõm vào từ bề mặt thường bắt nguồn từ nang lông.

– U nang dạng biểu bì, u nang vùi biểu bì, u nang bã nhờn: là những khối biểu bì, tròn, nhẵn bao gồm một vòng tế bào gai bao quanh các mảnh tế bào và keratin. U nang dạng bì dùng để chỉ u nang dạng biểu bì bên trong có chứa các cấu trúc phụ của da.

Còn u nang bã nhờn thực sự hiếm gặp bên trong được lát bởi những tế bào bã nhờn, ở giữa có chưa chất lipid ứ đọng giống như phomat. U nang bã nhườn là do ống tuyến bã bị bít tắc. Điều trị những u này cần cắt bỏ toàn bộ tổn thương, dẫn lưu đươn thuần không loại trừ được hoàn toàn các tế bào của thành u, chúng sẽ tiếp tục sinh ra keratin hoặc bã nhởn.

– Các tổn thương do nhiễm trùng: u mềm lây và mụn cơm là những tổn thương do nhiễm virut ở biểu bì. U mềm lây là những nốt nhẵn nổi lên, điển hình cso một lõm ở trung tâm, chúng nhỏ hơn và ít viêm hơn so với u sừng gai. Điều trị u mềm thường bằng cắt bỏ, nhưng u thường biến mất sau khi rạch hoặc nặn đơn giản hoặc cũng có thể điều trị bằng áp lạnh.

Mụn cơm thường gặp và do virut u nhú của người gây ra. Thường gặp hơn ở người trẻ và trẻ em. Chúng là những tổn thương tăng sừng hóa dạng u nhú ở da, thường không có triệu chứng.

Điều trị chủ yếu là cắt u, nhưng phải cắt toàn bộ nếu không sẽ làm phát tán virut và gây tái phát nhiều lần. Mụn cơm cũng có thể tự mất trong vòng vài tháng đến 2 năm nên có một số trường hợp không cần điều trị.

1.2 Các u tiền ác tính

Dày sừng quang hóa (do tuổi già hoặc do mặt trời): khối u là tiền triệu của carcinoma tế bào gai. Dày sừng quang hóa là những tổn thương có tăng sừng hóa, dày lớp gai, di sản, xuất hiện ở những vùng da hở của người già phơi nắng quá nhiều trong thời gian dài.

Thường có viêm mạn tính ở chân bì và nhiều tổn thương. Khoảng 25% bệnh nhân dày sừng quang hóa xuất hiện carcinoma tế bào gai ở một hoặc nhiều tổn thương này.

Khô da sắc tố: đây là bệnh di truyền lặn đặc trưng bằng tổn hại khả năng sửa chữa AND do ánh nắng gây ra. Vùng da hở xuất hiện những vùng tăng sắc tố, teo và giãn mao mạch trong khoảng 10 – 20 tuổi. Về sau xuất hiện nhiều khối u da, bao gồm carcinoma tế bào gai, tế bào đáy và u hắc tố.

1.3 Các u ác tính

Carcinoma tế bào đáy: là u ác tính thường gặp nhất của mi mắt. vùng quanh hốc mắt là vị trí thường gặp nhất của u này. Khối u bắt đầu bằng một vết loét nhỏ, cứng, bờ loét thường nối cao, tăng sừng hóa. U phát triển rất chậm nhưng sau nhiều năm có thể đạt kích thước rất lớn.

Carcinoma tế bào đáy xâm lấn dần và hủy hoại tại chỗ nưhng hiếm khi di căn. Tuy nhiên nếu không được phát hiện và xử trí chúng có thể xâm lấn rộng dưới da, xương thậm chí cả não. Ranh giới sâu và ngoại vi khó phân định nên có thể tái phát sau khi không cắt hết khối u.

Vì vậy cần xét nghiệm mô bệnh học sau phẫu thuật. Các phương pháp bổ sung cho phẫu thuật gồm có chiếu tia, áp lạnh hoặc phương pháp hóa phẫu thuật.

Carcinoma tế bào gai: chiếm 5% tổng số u ác tính ở mi mắt, có liên quan đến sự tiếp xúc lâu dài với ánh nắng. Carcinoma tế bào gai thường gặp ở mi trên, phát triền chậm, nằm tại chỗ trong thời gian dài, nhưng cuối cùng có thể di căn tới hạch lympho khu vực hoặc những vị trí và nội tạng ở xa.

II. Các u tuyến và u phần phụ cận:

Các u lành và carcinoma tuyến bã: tăng sản và u tuyến bã thường xảy ra ở tuyến Meibomius nhưng ít phổ biến. Carcinoma tuyến bã thường gặp hơn và thường bị chẩn đoán nhầm là viêm mi – kết mạc mạn tính hoặc chắp tái phát.

Carcinoma tuyến bã thường khởi đầu ở mi mắt nhiều hơn những vị trí khác. Rất ác tính, có tỉ lệ tử vong do di cản ít nhất 20% mặc dù được điều trị.

Điều trị Carcinoma tuyến bã lý tưởng nhất là cắt bỏ trên diện rộng, có hoặc không kèm theo chiếu tía bổ xung. Liệu pháp chiếu tía đơn độc đôi khi có hiệu quả nhưng không chắc chắn.

Các u lành và Carcinoma của tuyến mồ hôi: u lành tính cảu tuyến mồ hôi của mi mắt bao gồm tuyến Moll khá phổ biến và được phân loại theo mô bệnh học và mức độ biệt hóa. Trong khi đó Carcinoma tuyến mồ hôi rất hiếm gặp, chúng có thể có nguồn gốc tuyến ngoại tiết hoặc bán hủy.

Các u của nang lông: là u lành tính xuất phát từ các tế bào nang lông của biểu bì. Đó là tổn thương dạng nốt, nhẵn, cso nhiều nang keratin bao quanh bởi những tế bào đáy nằm bên trong chân bì.

III. Các u nguồn gốc ngoại bì thần kinh

3.1 Những tổn thương sắc tố lành tính: 

– Vết tàn nhang: là chấm nhỏ, dẹt, màu nâu ở trên da, do tăng sắc tố ở lớp đáy biểu bì.

Nốt ruồi: là những khối giả u bẩm sinh bao gồm những ổ hắc tố bào đã bị biến đổi. Nốt ruồi thường có sắc tố nhạt, hoặc k rõ o trẻ nhỏ nhưng khi tuổi cao lên nốt ruồi di chuyển xuống chân bì đồng thời kém hoạt động hơn.

Để lại thông tin để được tư vấn miễn phí và hưởng các ưu đãi

– U hắc tố: u hắc tố nguyên phát của mi mắt hiếm gặp hơn u hắc tố của da ở những vị trí khác. U hắc tố có thể phát sinh từ nốt ruồi ranh giới hoặc nốt ruồi hỗn hợp vốn có, nhưng hiếm khi sinh ra từ nốt ruồi chân bì. Sự phát triển của khối u cũng có thể nhanh đến mức che khuất nốt ruồi bên dưới.

– Nốt ruồi son ác tính: thường thấy trên mặt những bệnh nhân lớn tuổi và có thể liên quan tới sự phơi nắng. tổn thương tiền ác tính này có mức độ sắc tố khác nhau, bờ không đều, lan rộng và thoái triển theo từng đợt

3.2 Các u thần kinh

– U xơ thần kinh: u xơ thần kinh của mi là một bệnh di truyền trội đặc điểm quan trọng là có nhiều khối u da làm mi to ra và biến dạng nhiều.

– U bao Schwann: là u bao thần kinh lành tính, đơn độc, ít gặp, thường có vỏ bao bọc. Chúng thường phát sinh từ hốc mắt nhưng có thể xảy ra ở da, kể cả mi mắt.

IV. Các u mạch

U mạch mao mạch: loại u mi mắt này xuất hiện ngay từ khi sinh ra, lành tính. Chúng to ra trong 18 tháng đầu sau đó thoái triển trong vóng 5-8 năm. Có thể điều trị bằng tiêm Corticoid vào trong tổn thương.

U mạch hang: gồm những mạch máu rãn to, ít có khả năng tự thoái triển. U này hiện nay được điều trị abừng laser argon cho kết quả tốt.

U tế bào nội mạc và u tế bào ngoại mạc: Đây là tăng sinh lành tính của các tế bào nội mạc, ngoại mạc mạch máu. Có khả năng chuyển thành ác tính nhưng hiếm.

U bạch mạch: chủ yếu xuất hiện ở hốc mắt nhưng cũng có thể ở mi mắt.

U hạt ác tính ( Sarcoma Kaposi): u bao gồm nhiều mao mạch tăng sinh, tế bào nội mạc, tế bào dạng nguyên bào sợi không điển hình. Thường gặp ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch, bệnh ưa chảy máu, lây qua đường tình dục. Có nhiều phương pháp điều trị u này như hóa chất, chiếu tía, liệu pháp miễn dịch, cắt bỏ tổn thương hoặc áp lạnh.

V. Các u vàng

Ban vàng: là u mô bào, lành tính biểu hiện bằng một mảng màu vàng ngay dưới biểu bì. Thường gặp ở nữ giới, nhiều nhất ở vùng góc trong mi trên và mi dưới. Không có viêm. Điều trị bằng laser hay cắt bỏ.

U vàng xơ: tương tự như ban vàng nhưng trong tổ chức chứa nhiều mô xơ, thường có viêm và ít biến đồi ác tính.

Bệnh mô bào huyết: rất hiếm, biểu hiện bằng những ổ tổn thương nhỏ tương tự u hạt vàng ở người trẻ.

U hạt vàng ở người trẻ: khối u lành tính, xảy ra ở trẻ em. U gồm nhiều tổn thương ở các vùng khác nhau của da, có thể xảy ra ở mống mắt và hốc mắt. U tròn, nhẵn, màu da cam. U hạt vàng ở người trẻ có thể tự tiêu.

VI. Những tổn thương viêm

Lẹo: là những nốt viêm mủ cấp tính của mi mắt. Thường do nhiễm tụ cầu vàng. Điều trị bằng kháng sinh, chườm ấm, đôi khi phải trích dẫn lưu.

Chắp: u hạt mạn tính xuất phát từ tuyến Zeis hoặc tuyến Meibomius bị bít tắc. Tổn thương có thể tiêu đi sau nhiều ngày, nhiều tháng để lại phần mô sẹo nhỏ.

U hạt sinh mủ: là khối gồ lên đỏ như thịt bò, có cuống, có thể xuất phát từ da hoặc niêm mạc, bao gồm kết mạc, tiết tố mủ hoặc nhày mủ. Mô hạt có thể được cắt bỏ, có thể tự mất đi do tróc đột ngột hoặc thu nhỏ dần. Có thể dùng Corticoid tiêm hoặc tra tại chỗ.

Bệnh Sarcoit: xảy ra ở mi mắt, kết mạc và mô nội nhãn. Là u hạt riêng rẽ, không sinh bã đậu.

Các viêm khác do nhiễm trùng hoặc ký sinh trùng

VII. Các u di căn

Bất kỳ loại u mi mắt di căn nào cũng có thể xuất hiện ở mi mắt, nhưng hiếm gặp. Vị trí hay gặp nhất là hắc mạc và hốc mắt.

Bệnh viện Mắt Sài Gòn

Bs. Nguyễn Thị Phương

 

Chia sẻ: